EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội

EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội

EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội

EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội

EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội
EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
  • slideshow
UY TÍN - CHẤT LƯỢNG - CHUYÊN NGHIỆP - HÃY ĐỂ CHÚNG TÔI ĐỒNG HÀNH CÙNG BẠN

Sản phẩm nổi bật

Danh mục sản phẩm
Hỗ trợ trực tuyến
Hotline tư vấn:
0909.696.215 08.6653.8989
Mr Dũng
Giỏ hàng
Tin tức mới
Thị trường viễn thông đang chứng kiến cuộc đua mới giữa...
Sáng nay, hãng viễn thông VinaPhone tiếp tục có các cuộc họp...
Trên cơ sở tính toán các phương án cung cầu điện cho năm...
Vụ cách chức Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đường sắt...
Bao giờ đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông hoạt động? Dự...

EVN: Hệ thống điện đủ cung cấp cho phát triển kinh tế-xã hội

Trên cơ sở tính toán các phương án cung cầu điện cho năm 2014, ngay từ đầu năm, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã nhận định hệ thống điện đủ năng lực đảm bảo cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế-xã hội của cả nước; trong đó có hệ thống truyền tải điện Bắc-Nam tiếp tục có vai trò đặc biệt quan trọng đảm bảo điện cho miền Nam.

Tuy nhiên, trên thực tế trong một số trường hợp khi có sự cố lớn về nguồn, lưới đã ảnh hưởng đến việc cung cấp điện cho khách hàng sử dụng điện. Bài toán đảm bảo cung cấp điện luôn được đặt ra không chỉ đối với EVN, Tập đoàn được Chính phủ giao trọng trách chính về vấn đề này, mà còn đặt ra đối với ngành điện, các đơn vị tham gia hoạt động điện lực và các địa phương.

Chưa cải thiện lưới điện dự phòng

Đánh giá của ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, cho thấy trong 3 năm gần đây, do được bổ sung gần 9.900 MW nguồn điện mới và 110 công trình lưới điện 500-220-110kV với khối lượng tăng thêm 5.600km đường dây và 25.400MVA công suất trạm biến áp nên hệ thống điện Việt Nam về cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu phụ tải với độ tin cậy cung cấp điện ngày càng được nâng cao.

Đến đầu năm nay, trong cơ cấu nguồn của hệ thống điện toàn quốc, thủy điện chiếm tỷ trọng cao nhất, gần 48,8%; tiếp đến là tuabin khí chạy khí, dầu DO và nhiệt điện khí chiếm 24,29%; nhiệt điện than là 23,07%, còn lại là các nguồn khác. Đặc biệt, độ ổn định tin cậy của hệ thống điện tại nhiều khu vực đã cải thiện do nhiều công trình chống quá tải được hoàn thành.

 

Cùng với việc bổ sung các công trình nguồn và lưới theo quy hoạch, các hệ thống rơle bảo vệ và tự động hóa cũng được cải tạo, nâng cấp. Các rơle bảo vệ làm việc tin cậy, chọn lọc, tác động chính xác góp phần đảm bảo vận hành an toàn và nâng cao tính ổn định trong vận hành hệ thống điện. Hệ thống điện đang vận hành với các cấp điện áp cao áp 500kV, 220kV, 110kV và các cấp điện áp trung áp từ 6kV đến 35kV. Theo các chuyên gia năng lượng, mặc dù mức tăng trưởng khối lượng lưới truyền tải trong 3 năm gần đây luôn đạt 2 chữ số, nhưng phụ tải cũng tăng trưởng tương ứng 10,4%, do đó mức độ dự phòng của lưới điện vẫn chưa được cải thiện nhiều.

Ông Đỗ Mộng Hùng, Trưởng Ban Kỹ thuật-Sản xuất EVN, cho biết vẫn xuất hiện tình trạng quá tải cục bộ tại một số điểm, độ tin cậy cung cấp điện chưa cao, tiêu chí N-1 (tiêu chí bảo đảm nếu hệ thống điện bị mất do sự cố thì sẽ không phải sa thải phụ tải hoặc hệ thống phải vận hành ngoài các giới hạn kỹ thuật cho phép) chưa được đảm bảo.

Trên thực tế, từ năm 2013 đến nay, lưới điện 500kV luôn vận hành đầy tải với xu hướng truyền tải chủ yếu từ miền Bắc và miền Trung vào miền Nam, do khu vực miền Nam chưa được bổ sung thêm nguồn điện mới. Trong khi đó, do khó khăn trong việc thu xếp vốn, đền bù giải phóng mặt bằng dẫn đến một số công trình lưới điện chậm tiến độ, hệ thống truyền tải chưa đảm bảo dự phòng, đặc biệt là khu vực miền Bắc và miền Nam.

Ảnh hưởng từ các yếu tố

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi cho biết do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đầu tư nguồn và sự phát triển của phụ tải khu vực, đến nay, chưa thể cân đối cơ cấu nguồn điện giữa các miền Bắc, Trung, Nam khiến đường dây 500kV Bắc-Nam luôn phải truyền tải công suất và sản lượng lớn theo hai chiều từ Nam ra Bắc hoặc từ Bắc vào Nam tùy từng thời kỳ trong năm.

Tuy nhiên, từ năm 2010 trở lại đây, xu thế chủ yếu là truyền từ miền Bắc/miền Trung vào miền Nam và dự báo xu thế này còn tiếp diễn trong các năm 2015, 2016 và 2017. “Với tổng chiều dài trên 1.500km từ Bắc vào Nam, việc liên tục phải truyền tải công suất và sản lượng điện lớn trong thời gian dài là một vấn đề khó khăn trong công tác vận hành hệ thống điện,” ông Hùng nói. Thực tế hiện nay, trong hệ thống điện quốc gia còn nhiều đường dây phải vận hành đầy hoặc thậm chí quá tải. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là các khó khăn của quá trình đầu tư xây dựng, đặc biệt là các công trình lưới điện truyền tải, khiến nhiều công trình không thể vào vận hành đúng tiến độ như dự kiến; trong đó vốn và đền bù giải phóng mặt bằng là hai vấn đề chủ yếu. Một yếu tố cũng được các chuyên gia đặt ra là tình trạng vi phạm hành lang an toàn lưới điện, nhất là đối với các đường dây cao áp ngoài việc gây nguy hiểm cho người dân, mất an toàn trong việc cấp điện còn gây nhiều khó khăn cho việc đảm bảo vận hành tin cậy và ổn định hệ thống điện.

Nhìn từ giải pháp

Giải bài toán đảm bảo cung cấp điện an toàn và ổn định trong mọi tình huống, theo ông Đỗ Mộng Hùng, trước mắt cần tăng cường công tác bảo vệ, giảm thiểu nguy cơ vi phạm hành lang an toàn lưới điện cao áp, đặc biệt là hành lang an toàn hệ thống điện 220/500 kV. Theo đó, EVN tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng trong công tác bảo vệ hành lang an toàn lưới điện cao áp, đặc biệt là hành lang an toàn hệ thống điện 220 và 500kV. Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia chú trọng kiểm tra trong vận hành và công tác thí nghiệm, bảo dưỡng theo quy định đối với các thiết bị trên lưới điện truyền tải để kịp thời phát hiện, xử lý các hiện tượng bất thường của thiết bị lực và hệ thống rơ le bảo vệ nhằm ngăn ngừa sự cố. Về trung và dài hạn, ông Đỗ Mộng Hùng cho rằng EVN đang tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp nhằm nâng độ tin cậy và ổn định của lưới điện truyền tải nói riêng và hệ thống điện nói chung. Qua đó, từng bước giải quyết các bất cập hiện nay như phải truyền tải cao trên đường dây 500kV Bắc-Nam, tình trạng đầy và quá tải đường dây và trạm biến áp, tình trạng điện áp thấp.... Cụ thể, trong 4 năm tới, EVN phấn đấu đảm bảo tiến độ các công trình nguồn điện đang xây dựng tại miền Nam; trong đó tập trung vào dự án Vĩnh Tân II, Duyên Hải I, Ô Môn I.2, Duyên Hải III, Duyên Hải III mở rộng, Vĩnh Tân IV nhằm tăng thêm nguồn điện cho khu vực phía Nam để giảm truyền tải trên các đường dây 500kV Bắc-Nam. Cùng với việc đảm bảo tiến độ đầu tư các công trình lưới điện truyền tải, giải quyết dứt điểm tình trạng đầy và quá tải của đường dây và trạm biến áp, Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia sẽ đầu tư lắp đặt các thiết bị FACTS (Hệ thống truyền tải điện xoay chiều linh hoạt), trước mắt là các tụ bù tĩnh SVC (Tụ bù tĩnh có dung lượng thay đổi) trên hệ thống 500/22 kV nhằm cải thiện chất lượng điện áp và nâng cao độ ổn định cho hệ thống. Đồng thời, triển khai trang bị máy cắt kháng điện 500kV để đảm bảo khả năng điều chỉnh điện áp trong các chế độ vận hành hệ thống điện. Song song với đó, Tập đoàn cũng thực hiện dự án “Đánh giá, phân tích, đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường ổn định và tin cậy của hệ thống điện Việt Nam” và dự án “Thiết lập đặc tính kỹ thuật và tiêu chuẩn cho cấu hình hệ thống rơle bảo vệ, thiết bị tự động hóa cho nhà máy điện và trạm biến áp của hệ thống truyền tải điện Việt Nam,” trong đó sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề về ổn định và dao động hệ thống điện. Ngoài ra, nghiên cứu triển khai một số hệ thống kỹ thuật cao như một số nước tiên tiến trên thế giới đã làm như hệ thống bảo vệ diện rộng, hệ thống sa thải phụ tải theo điện áp, sơ đồ tách đảo cưỡng bức, sơ đồ cắt liên động... Tuy nhiên, để thực hiện được đồng bộ các giải pháp trên, ông Trần Viết Ngãi cho rằng nhất thiết chủ đầu tư các công trình nguồn điện trong hệ thống điện miền Nam theo Quyết định số 2414/QĐ-TTg ngày 11/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh danh mục, tiến độ một số dự án điện và một số cơ chế, chính sách đặc thù để đầu tư công trình điện cấp bách trong giai đoạn 2013-2020 cần phải đảm bảo tiến độ các dự án nguồn được giao nhằm tăng nguồn cung trong hệ thống điện miền Nam, tạo điều kiện giảm công suất truyền tải trên đường dây 500kV Bắc-Nam. Một vấn đề không kém phần quan trọng là Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần có biện pháp quyết liệt tháo gỡ khó khăn trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng các công trình lưới điện truyền tải. Có như vậy, các dự án mới có thể thi công đúng kế hoạch, góp phần tăng độ tin cậy cho hệ thống điện, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế-xã hội qua các năm, ông Ngãi nhấn mạnh. Đồng thời, các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần chỉ đạo quyết liệt hơn nữa trong công tác đảm bảo hành lang an toàn lưới điện cao áp, đặc biệt là hành lang an toàn hệ thống điện 220kV và 500kV. Mặt khác, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị quản lý lưới điện tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật và nâng cao ý thức bảo vệ hành lang an toàn lưới điện cao áp trong xã hội, đặc biệt là những khu vực có đường dây cao áp đi qua

Tin tức liên quan

Nhà phân phối

sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn
sliderbn